Mặc dù chính hội chùa Tây Phương là ngày 06/03 âm lịch. Nhưng ngay từ sau tết nguyên Đán 2016 hàng vạn du khách thập phương đã ùa về Trẩy hội chùa Tây Phương để thành tâm lễ Phật và thăm thú một ngôi chùa có bề dày lịch sử. Một ngôi chùa đã được xếp hạng di tích lịch sử -văn hóa quốc gia đặc biệt.
Lịch sử chùa Tây Phương
Cách trung tâm Hà Nội khoảng 30Km vị trí cùa Tây Phương nằm trên đỉnh núi Câu Lậu, thuộc xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, TP.Hà Nội, chùa Tây Phương là công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc, tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê, đặc biệt với kiệt tác 62 pho tượng Phật cổ được công nhận là bảo vật Quốc gia.
Chùa Tây Phương có tên chữ là Sùng Phúc tự nằm trên ngọn núi Câu Lậu cao 100m trong quần thể chùa Thanh Am và chùa Quan Âm. Từ chân núi lên đến cổng chùa là 239 bậc đá ong, 2 bên đường là những bụi tre cao vút, cây cối xanh mát quanh năm và những nếp nhà giản dị được xây bằng đá ong của người dân vẫn còn được lưu giữ.
Chùa Tây Phương còn ẩn chứa trong đó những giá trị lịch sử và văn hóa truyền thống của người Việt cổ mà biểu hiện rõ nhất là ở hệ thống kiến trúc, hệ thống tượng pháp trong chùa cùng với các nghi lễ chính tôn nghiêm diễn ra trong dịp lễ hội hằng năm.
Theo truyền thuyết thì chùa được xây dựng vào thế kỉ thứ III, gồm ba nếp nhà song song, làm cách nhau thành hình chữ Tam theo lối kiến trúc cổ Việt Nam. Thềm tòa nhà nọ cách thềm tòa nhà kia 1,6m. Mỗi nếp có hai tầng mái kiểu chồng diêm, tường xây toàn bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần tạo thành một không khí rất thô sơ mộc mạc, điểm những của sổ tròn với biểu tượng “sắc sắc không không”; các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh khắc hình cánh sen.
Điều đặc biệt ở kiến trúc chùa Tây Phương là mái hai lớp trên có múi in nổi hình lá đề, lớp dưới là ngói lót, còn gọi là ngói chiếu, hình vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa xếp trên những hàng rui gỗ làm thành ô vuông vắn đều đặn.
Xung quanh diềm mái của ba toà nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng bằng đất nung đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng giàu sức khái quát và khả năng truyền cảm.
Tất cả các chi tiết gỗ trong chùa đều được chạm trổ tinh xảo. Các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long… đều có chạm trổ đề tài trang trí quen thuộc của dân tộc Việt: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù… rất sống động được tạo ra dưới bàn tay người thợ tài hoa của các nghệ nhân làng mộc ngay trong vùng Tổng Nủa, làng truyền thống Chàng Sơn – làng nghề mộc lâu đời và nổi tiếng của xứ Đoài.
Nhưng độc đáo và đặc sắc nhất là bộ tượng gồm 62 pho tượng Phật cổ được làm hoàn toàn bằng gỗ mít, pho nào cũng được tạo tác rất công phu, tinh xảo, sinh động từ nếp quần áo đến dáng điệu, sắc thái.
Nét mặt các pho tượng chùa Tây Phương biểu lộ niềm vui hoặc nỗi buồn, trạng thái thanh thản hay ưu tư của tâm hồn. Đường nét trên khuôn mặt, vừng trán hay tư thế đứng, ngồi đều phản ánh nhiều cung bậc cảm xúc, tâm trạng khác nhau.
Thay vì 18 vị La Hán như ở các chùa khác, ở đây có tượng của 16 vị Tổ, nhiều pho được tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ Pháp, cao chừng 3m, trang nghiêm phúc hậu; đặc biệt là tượng Tuyết Sơn, tượng La Hầu La được xem là vào loại đẹp nhất trong nền nghệ thuật điêu khắc Việt Nam cổ đại.
Ngoài khuôn viên chùa Tây Phương, những bậc cấp bằng đá ong còn đưa bạn đến thăm chùa Thanh Am và chùa Quan Âm. Bắt gặp trên đường xuống là những nếp nhà xây bằng đá ong để trần, những khung cảnh và khoảng sân thoáng rộng, tĩnh lặng mang lại cho du khách cảm giác như đang lọt vào một ngôi làng cổ của nhiều thập kỷ trước đã in dấu chân Bác Hồ về thăm và làm việc.
Những đổi thay trong Lịch Sử
Theo một số tài liệu để lại thì chùa Tây Phương xây từ thế kỷ thứ 8, là ngôi chùa cổ thứ hai, sau chùa Dâu ở Bắc Ninh. Năm Giáp Dần (1554), thời Lê Trang Tông ngôi chùa tiếp tục có cuộc tôn tạo lớn. Sau đó, chùa Tây Phương bị phá đi, xây mới và dựng thêm tam quan. Chùa Tây Phương còn đến nay đã được xây lại trên nền chùa cũ, đúc thêm chuông vào khoảng 1788-1789 dưới triều Tây Sơn, và gắn chữ “Tây Phương cổ tự” từ đó. Hiện trong chùa còn chuông đồng đúc năm Bính Thìn 1796, năm Cảnh Thịnh thứ 4 và bài Minh do Phan Huy Ích soạn khắc vào chuông năm Mậu Ngọ (Cảnh Thịnh thứ 6).
Trải qua bao nhiêu thăng trầm của thời gian và biết bao biến cố lịch sử, chùa Tây Phương ngày nay có kiến trúc độc đáo với 3 toà xếp thành hình chữ Tam: chùa Thượng (thờ các vị La Hán), chùa Trung (thờ Phật Tuyết Sơn), chùa Hạ (thờ bát bộ Kim Cương). Nhưng một trong những nét độc đáo của chùa Tây Phương là nằm trên ngộn đồi cao, phóng tầm mắt ra xung quanh là ruộng đồng xanh mướt. Để có thể bước chân vào lễ Phật, du khách còn phải chinh phục 239 bậc đá ong cổ. Bước qua khoảng sân, là vào chùa Hạ đại diện của chữ Nhân, tiếp đến là chùa Trung – chữ Thiên, chùa Thượng – chữ Địa.
Nhìn từ phía ngoài mỗi toà có hai tầng, 8 mái và 8 đầu đao cong vút. Sẽ không mất nhiều thời gian để khám phá, nhưng bạn sẽ có rất nhiều thú vị khi tìm hiểu về kiến trúc của chùa. Khác với nhiều chùa chiền ở Việt Nam, toà giữa (chùa Trung) của chùa Tây Phương hẹp nhưng cao hơn toà Thượng và Hạ. Mỗi nếp có 2 tầng mái kiểu chồng diêm, tường xây toàn bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần tạo thành một không khí rất thô sơ mộc mạc, điểm những của sổ tròn với biểu tượng sắc và không; các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh trong khắc hình cánh sen. Mái lợp hai lớp ngói: mái trên có múi in nổi hình lá đề, lớp dưới là ngói lót hình vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa xếp trên những hàng rui gỗ làm thành ô vuông vắn đều đặn…
Với những giá trị về kiến trúc, lịch sử, tôn giáo, năm 1962, chùa Tây Phương đã được Bộ VHTT&DL công nhận là Di tích Lịch sử – Văn hóa quốc gia, năm 2014 được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt.